Trong thành phần của nước thải rửa ảnh có chứa Ag tồn tại dưới dạng phức chất Na2[Ag(S2O3)3] tan. Trong thực tế có một số phương pháp tách Ag từ loại này, nhưng những phương pháp thường dùng đều kết tủa ion Ag+ dưới dạng Ag2S sau đó chuyển thành muối tan AgNO3 từ muối này, người ta là kết tủa Ag+ dưới dạng AgCl rồi thu Ag theo các phương pháp tách Ag từ muối halogen đã nói ở trên.
Dùng dung dịch Na2S hoặc (NH4)2S bão hòa, cho từ từ vào nước thải để kết tủa bạc dưới dạng Ag2S
(màu đen ), cho đến khi thấy không còn xuất hiện them kết tủa lúc đó
đem toàn bộ lượng Ag trong dung dịch được kết tủa thành Ag2S:
2Na2[Ag(S2O3)3] + Na2S = Ag2S + 4Na2S2O3
Để yên một thời gian để lắng toàn bộ Ag2S, gạn bỏ lượng nước trong bên trên rửa sạch kết tủa nhiều lần bằng nước nóng lọc kết tủa và xử lí bằng một trong các cách sau:
Trộn kết tủa khô với lượng tương đương KNO3 nung trong chén sứ chịu nhiệt ở nhiệt độ cao:
2Ag2S + 2KNO3 = 4Ag + NO2 + 2SO2 + KO2
Dùng HNO3 để hòa tan Ag2S:
3Ag2S + 8HNO3 = 6AgNO3 + 2NO + 3S + H2O
Sau đó kết tủa Ag+ từ dung dịch AgNO3 thành AgCl và tách Ag từ kết tủa AgCl theo cách đã nêu ở trên.
Dùng dung dịch HCl đặc 37% nhỏ từ từ vào nước thải đến khi thấy không còn sủi bọt khi đó phản ứng xảy ra.
2Na2[Ag(S2O3)3] + 4HCl = AgCl + 2S + 2 SO2 + 2H2O + 3NaCl
Kết tủa lắng xuống đáy có màu trắng đục gồm có
AgCl và S được rửa nhiều lần, sấy khô rồi nung hỗn hợp ở nhiệt độ cao
cho cháy hết lưu huỳnh, thực hiện tách Ag từ AgCl bằng các cách đã nêu ở
trên.
Lưu ý: Trên
đây có nhiều phương pháp được sử dụng trong quy mô công nghiệp, và nó
cũng được tiến hành ở những phòng thí nghiệm hiện đại với những dụng cụ
đặc trưng với từng phản ứng nhưng ở những phòng thí nghiệm thường thì
chỉ có một số phương pháp phổ biến dễ thực hiện và tính an toàn như
phương pháp thủy luyện, điện phân với cách thực hiện đã nêu ở trên.