Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Máng đãi bắt vàng bằng đồng mạ bạc 50x30cm (Mạ 6,2g Ag)



Máng đãi bắt vàng bằng đồng mạ bạc 50x30cm (Mạ 6,2g Ag)

Chi tiết tại: http://vietnamchemtech.com.vn/chitietSP.asp?id_pro=1728
Máng đãi vàng đóng bằng gỗ với kích thước: dài 3 - 4m, rộng 50 cm. Dùng bao tải hoặc vải thô lót đáy máng và dùng các thanh gỗ nhỏ gắn ngang các bậc thành gờ để chắn quặng sao cho sau mỗi mẻ đãi có thể tháo lắp thật dễ dàng. Máng đãi rất thích hợp đối với nhóm làm việc quy mô gia đình, hoặc những người làm vàng có sự thân thiết, tin cậy nhau. Ở một số mỏ vàng nước ta như Bồng Miêu (Quảng Nam - Đà nẵng), Trà Năng (Lâm Đồng) v.v... đã dùng loại công cụ này để đãi có kết quả tốt. Người ta đặt máng nghiêng so với mặt phẳng nằm ngang, độ nghiêng tùy theo lưu lượng và tốc  độ dòng chảy. Thông thường, độ nghiêng vừa phải là 0,10, tức là cứ mỗi mét chiều dài của máng có chênh lệch nhiều cao 10cm. Nơi đầu máng có nguồn nước chảy vào nên để quặng tập kết thành đống tại đấy để tiện xúc vào máng đãi. Ở nơi có khe suối, người ta tìm cách bắt dòng nước chảy vào máng đãi rất thuận. Nhưng ở nơi không có suối phải dùng bơm để đưa nước vào. Mỗi máng đãi theo quy trình này cần tối thiểu ba người làm, hai người xúc khoáng vật đổ vào máng, một người chuyên khuấy và kiểm tra toàn hệ thống máng nhằm đảm bảo không bị nghẽn tắc.
Tùy địa hình cụ thể, máng có thể đặt thẳng, có thể đặt gấp khúc. Nếu dòng nước quá mạnh thì chính nơi gấp góc trở thành một thuận lợi cho quặng dễ lắng đọng. Ở cuối máng, người ta căng một bao tải khác để chắn quặng, tránh vàng thất thoát theo dòng nước. Dùng bao tải vừa rẻ tiền vừa dễ thoát nước, mà sợi bao lại bắt dính các hạt quặng nhỏ làm cho chúng không thoát mất theo nước ra ngoài.
Đãi xong một mẻ, người ta gỡ các bao tải khỏi máng và đem rũ trong một chậu nước để thu quặng màu đen có lẫn vàng. Công việc cuối cùng - sau nhiều mẻ đãi - đem đãi tinh sa khoáng nặng ở đáy chậu, sẽ lấy được vàng cục và vàng cám.
Theo kinh nghiệm của nhân dân, mỗi ngày trung bình một nhóm 3 - 4 người dùng máng có thể đãi được không 8 - 10m3 đất đá có chứa vàng.

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Khai thác khoáng sản thô: Lợi nhuận chảy vào túi doanh nghiệp

Thời gian gần đây, chuyện Công ty TNHH thương mại vàng Phước Sơn (thuộc Tập đoàn Besra) đổ nợ hàng chục tỷ đồng đã làm “nóng” dư luận về vấn đề khai thác khoáng sản thô trong nước. Thực tế nhiều năm qua đã minh chứng lợi nhuận từ việc khai thác này chỉ có doanh nghiệp (DN) được lợi, còn thiệt hại địa phương lãnh đủ.
http://www.vietnamchemtech.com.vn/chitietTT.asp?cate_id=1&news_id=1116


Thời gian gần đây, chuyện Công ty TNHH thương mại vàng Phước Sơn (thuộc Tập đoàn Besra) đổ nợ hàng chục tỷ đồng đã làm “nóng” dư luận về vấn đề khai thác khoáng sản thô trong nước. Thực tế nhiều năm qua đã minh chứng lợi nhuận từ việc khai thác này chỉ có doanh nghiệp (DN) được lợi, còn thiệt hại địa phương lãnh đủ.

GÓP CỔ  PHẦN, NGƯỜI DÂN LÃNH NỢ
Những ngày qua, cuộc sống của hàng trăm hộ dân ở “thiên đường vàng” Phước Sơn (huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam) bị đảo lộn vì Công ty TNHH thương mại vàng Phước Sơn xù nợ. Bức xúc, ngày 26-12-2013 hơn 200 người từ bà bán rau, cô hàng tạp hóa đến đại diện các công ty lớn, nhỏ cùng kéo đến bao vây Nhà máy vàng Đắk Sa gây áp lực mong đòi được nợ.
Ngoài những tiểu thương nhỏ lẻ, DN này còn nợ Công ty Quảng An 18 tỷ đồng. Quảng An được thành lập trên cơ sở trở thành đối tác chính của Công ty vàng Phước Sơn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, vận chuyển quặng, cho thuê máy móc thiết bị... Ngoài vốn tự có và vay ngân hàng, còn lại là của người dân địa phương hùn vào với tư cách cổ đông. Đầu năm 2013 công ty thay đổi giám đốc, từ đó số nợ của đối tác bắt đầu chậm trễ và có dấu hiệu “xù”. Vì vụ đổ nợ động trời này, ông Đỗ Ngọc Thắng - Chủ tịch UBND thị trấn Khâm Đức - đã viết đơn xin từ chức để đi đòi nợ cho những cổ đông góp vốn vào Công ty Quảng An của ông.
TRĂM HẠI ĐỔ RA MÔI TRƯỜNG
Nước ta có nguồn quặng sa khoáng titan khá lớn, tập trung chủ yếu ở vùng ven biển các tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam, Phú Yên... với tổng trữ lượng khoảng 664 triệu tấn quặng tinh. Trong đó, 83% sa khoáng titan tập trung ở những địa phương có tầng cát đỏ như Ninh Thuận, Bình Thuận và phía bắc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo thống kê, đến nay có 38 khu mỏ và 18 xưởng sàng lọc tinh quặng của 40 đơn vị đăng ký khai thác sa khoáng titan, cho ra đời 2 triệu tấn/năm.
Bình Thuận có trữ lượng titan gần 600 triệu tấn ở tầng sâu 100 mét, lớn nhất Đông Nam Á nên tình trạng khai thác trái phép diễn ra khá phổ biến. Lâu nay các dự án chỉ tận thu bề mặt chừng 3 - 5 mét với khoảng 1 triệu tấn. Toàn bộ quá trình được thực hiện theo kiểu “cuốn chiếu”: dùng nguồn nước ngầm tại chỗ tuyển quặng titan, xong hoàn thổ và khai thác tiếp vị trí kế cận. Điều này vô tình tạo ra những hồ chứa bùn không cố định, mọc lấn theo vị trí khai thác từng ngày. Do khí hậu nắng nóng quanh năm, nguồn nước ngọt ở đây càng trở nên quý hiếm trong khi việc sàng lọc titan cần rất nhiều nước nên nhiều công ty lén lấy nước biển đãi titan để giảm chi phí. Việc làm này khiến đất đai sau khai thác trở nên khô cằn, mất chất dinh dưỡng... Muốn cải tạo lại phải tốn rất nhiều chi phí và nước ngọt vốn đã khan hiếm tại địa phương.
Đã có bốn vụ vỡ hồ chứa bùn của các công ty khai thác sa khoáng titan gây ảnh hưởng đến tài nguyên đất, nước ngầm của khu vực. Theo Cục Thẩm định đánh giá tác động môi trường (Bộ Tài nguyên - Môi trường), việc khai thác titan thô tàn phá cảnh quan thiên nhiên, nguồn nước ngọt bị ô nhiễm, nhiễm mặn, dễ gây hiện tượng hoang mạc hóa khiến đường giao thông nhanh xuống cấp do quá trình vận chuyển. Bên cạnh đó, một số chủ đầu tư dự án khai thác titan không hoàn thổ như hiện trạng ban đầu, lơ là trong khâu gia cố hồ chứa bùn, đến khi xảy ra sự cố thì người dân địa phương lãnh đủ.
Ngoài ra, việc khai thác vàng thô cũng “nóng” không kém, góp phần tàn phá môi trường trong khi chỉ mang lại lợi ích rất nhỏ cho cộng đồng. Vàng là kim loại có phế thải khi khai thác lớn nhất do độ quý hiếm của nó. Để có 1 ounce (28,35g) vàng thành phẩm phải đào 79 tấn đất đá. Hiện có ba phương pháp chính tách vàng ra khỏi quặng gồm: xianua, amangam và cupen. Tất cả đều thải ra những chất vô cùng độc hại như xianua, thủy ngân, chì. Trung bình, để làm ra một chiếc nhẫn vàng bình thường có đến 18 tấn phế thải xả ra môi trường.
Từ khi tin đồn rừng phòng hộ đầu nguồn ở xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có mỏ vàng, nhiều người kéo đến tàn phá, đào bới, lật tung rừng mong đổi đời. Các hồ chứa nước Đồng Quang, hố Cọp, hố Khế dưới chân khu vực khai thác và nhiều giếng quanh vùng đều ngả màu do ô nhiễm từ chất thải, hóa chất dùng trong đãi vàng xả trực tiếp ra môi trường. Gia súc trong vùng mắc bệnh lạ, chết dần mòn theo năm tháng khiến người dân hoang mang, lo lắng...
Theo thống kê, từ năm 2008 đến tháng 6-2011 toàn quốc đã chuyển mục đích sử dụng 11.312ha rừng và đất lâm nghiệp sang khai thác khoáng sản, trong đó không ít trường hợp bị lợi dụng để khai thác lâm sản trái phép. Nhiều địa phương sau khi cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp thì buông xuôi, không kiểm tra, tạo điều kiện cho đối tượng xấu tung hoành.
Quá trình tuyển rửa quặng cũng làm gia tăng hàm lượng bùn đất trong nước, gây bồi lắng sông suối, ảnh hưởng đến các công trình thủy lợi, nguồn nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Năm 2012, người dân thôn Phú Hữu, xã Ân Tường Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định phải bỏ hoang lúa hai vụ vì sợ chất thải độc hại từ bãi vàng Công ty TNHH thương mại Đức Nghĩa xả thẳng xuống ruộng.
Hoạt động liên tục hơn 30 năm qua, suối Damrông chảy qua vùng Định Quán đã biến thành “vùng đất chết” do hoạt động của mỏ bô xít Bảo Lộc. Mỏ này tuyển ra bô xít thương phẩm để đưa về Nhà máy hóa chất Tân Bình (TPHCM) sản xuất hydroxit nhôm dùng làm chất phụ gia trong ngành sành sứ, vật chịu lửa hay sản xuất phèn nhôm lọc nước. Mỗi năm, mỏ khai thác khoảng 260.000 tấn quặng nguyên để cho ra 120.000 tấn quặng tinh.
Việt Nam là một trong những nước có tiềm năng lớn về quặng bô xít dùng để sản xuất nhôm với trữ lượng khoảng trên 5,4 tỷ tấn nguyên khai, tập trung chủ yếu ở Tây nguyên. Bất chấp sự phản đối của dư luận và các chuyên gia đầu ngành từng cảnh báo về tác hại môi trường, hai dự án Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) với tổng cộng 13 mỏ bô xít vẫn được đưa vào hoạt động gần ba năm qua. Chưa tính đến thiệt hại môi trường, khi lô hàng alumin đầu tiên rời Nhà máy bô xít Tân Rai về cảng Gò Dầu để xuất ngoại đã khiến cung đường này phải gồng mình “gánh” lượng xe quá tải từ 6 - 19 tấn.
“KHUYẾN MÃI” BỆNH TẬT
Hơn 10 năm qua, từ khi các công ty bắt đầu khai thác cát trên sông Hậu, đầu nguồn xã Tân Thuận Đông (TP.Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) đã khiến người dân địa phương luôn thấp thỏm lo bị “cướp trắng” tài sản. Ông Phạm Thành Được - Chủ tịch UBND xã - cho biết: “Từ ngày nước chảy xiết, phần đất lở sâu vô hơn 50 mét, kéo dài chừng 400 mét, ảnh hưởng đến tài sản của 41 hộ dân trong xã, buộc phải di dời khẩn cấp”.
“20 năm trở lại đây, tôi đã bị nuốt bốn căn nhà và hàng trăm mét vuông đất trồng xoài, chuối mưu sinh. Từ khi có mấy ghe cát đến khai thác ngày đêm, người dân sống ven sông chúng tôi cứ bị nuốt trôi tài sản, đất đai, nhà cửa mỗi năm một ít. Giờ tôi phải ở đậu nhà con cái, tương lai chưa biết lấy gì sinh sống nữa”, ông Huỳnh Hữu Nghĩa (SN 1954, ngụ ấp Đông Thạnh, xã Tân Thuận Đông) nghẹn ngào kể. Theo thống kê, hiện có gần 30 nghìn hộ ở đồng bằng sông Cửu Long nằm trong khu vực có nguy cơ cao bị sạt lở bờ sông mà nguyên nhân chính là do hoạt động khai thác cát của một số tổ chức, cá nhân gây ra.
Xã Thuận Quý, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận được ví như “thủ phủ titan”, nhưng người dân hầu như ai cũng được “khuyến mãi” các chứng bệnh về mắt, đường hô hấp do ảnh hưởng quá trình khai thác loại sa khoáng thô này. “Từ khi các công ty về khai thác, hầu hết giếng nước của chúng tôi đều bị cát đen bay vào. Dù sợ ngộ độc nhưng bà con vẫn phải sử dụng vì không tìm đâu ra nguồn khác thay thế. Riết rồi ai cũng bệnh, không chứng này thì tật kia”, ông Trần L. (57 tuổi, ngụ thôn 4) than thở.
Bà Nguyễn Thị Oanh - Trưởng trạm y tế xã Thuận Quý - ngao ngán: “Trước kia mỗi ngày chỉ có vài ba người đến khám, giờ đây lên đến hàng chục, chủ yếu là các bệnh viêm giác mạc, suy hô hấp, viêm họng...”. Có một điều nghịch lý vẫn tồn tại nơi đây: các công ty khai thác sa khoáng thu lợi bao nhiêu thì người dân phải chịu đựng “bi kịch” từ trên trời rơi xuống bấy nhiêu!
Bên cạnh đó, Nhà nước có khả năng bị thất thu thuế do tình trạng khai thác khoáng sản thô như hiện nay. Đơn cử việc khai thác titan ở Bình Thuận trong ba năm (2010-2012) thì thuế tài nguyên nước (TNN) của các công ty đăng ký khai thác nộp ngân sách chưa đến 113 triệu đồng? Thêm vào đó, năm 2012 chỉ có 5/15 DN kê khai nộp thuế TNN, 10 DN còn lại vẫn im hơi lặng tiếng. Theo tính toán, với sản lượng cấp phép cho 15 DN khai thác trong ba năm qua thì tiền thuế TNN đáng lý phải lên đến gần 10 tỷ. Phải chăng chính sự quản lý dễ dãi đã khiến các DN khai thác khoáng sản lộng quyền?
Dù xét về khía cạnh nào đi nữa thì việc khai thác khoáng sản thô như hiện nay chỉ có “trăm đường thua thiệt”, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người dân mà còn hủy hoại nghiêm trọng môi trường sống, gây thất thu cho Nhà nước. Đã đến lúc cơ quan chức năng cần xử lý nghiêm việc khai thác khoáng sản thô bừa bãi mới mong giảm thiểu những thiệt hại khôn lường. 
 
 Trung Oanh

Thứ Năm, 26 tháng 12, 2013

NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TIỀN XỬ LÝ QUẶNG VÀNG GỐC SUNFUA ĐỨC TRỌNG - TRÀ NĂNG - LÂM ĐỒNG

NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TIỀN XỬ LÝ QUẶNG VÀNG GỐC SUNFUA ĐỨC TRỌNG - TRÀ NĂNG - LÂM ĐỒNG
mỏ vàngBáo cáo trình bày kết quả nghiên cứu lựa chọn phương án tiền xử lý quặng tinh vàng gốc sunfua bằng phương pháp thiêu oxi hóa. Để có được nguyên liệu đầu vào đáp ứng yêu cầu cho quá trình thu hồi vàng bằng công nghệ hòa tách xianua và các công nghệ khác đạt hiệu quả thu hồi vàng cao...
1. Đặt vấn đề
Tiền xử lý là giải pháp xử lý ban đầu loại quặng vàng khó chế biến trước khi tiến hành phương án công nghệ thu hồi vàng chủ yếu (hòa tách xianua, clorua hóa, nung luyện...). Thực chất của vấn đề “tiền xử lý” là quá trình oxy hóa quặng,quặng tinh nhằm giải phóng vàng có mặt trong các cấu trúc khoáng vật chứa vàng loại bỏ các tạp chất có thể gây khó khăn trong quá trình chế biến sau tạo điều kiện có thể tiến hành thu hồi vàng có hiệu quả. Các biện pháp tiền xử lý được áp dụng hiện nay: thiêu oxy hóa, oxy hóa hóa học, oxy hóa vi sinh.
2. Các phương pháp tiền xử lý
2.1. Phương pháp thiêu oxi hoá
Phương pháp thiêu oxi hoá nhiệt độ cao dùng để xử lý quặng vàng sunfua hoặc quặng tinh vàng sunfua thu được sau khi tuyển nổi. Các hạt vàng xâm tán rất mịn, đến mức Nghiền siêu mịn cũng không thể bóc trần.
Mục đích của quá trình thiêu là biến các sunfua thành oxit hoặc sunfat, nhằm phá vỡ cấu trúc bền chặt và đặc xít thành tơi xốp và làm lộ các hạt vàng siêu mịn. Vì vậy khả năng hoà tan vàng vào dung dịch xianua hay quá trình xử lý tiếp theo sẽ thuận lợi hơn. Ngoài ra nhờ quá trình thiêu mà khử được các tạp chất gây hại như S, As, Sb... các tạp chất nặng sẽ bay hơi theo các phản ứng:
       FeS2 = FeS +S
       FeAsS = FeS +As
       2CuFeS2 = Cu2S + 2FeS +S
MeS + O2   =   MeO + SO2
S + O2 = SO2
As   + O2 = As2O3
sản phẩm phân huỷ cũng như các sunfua kim loại khác có trong quặng bị oxi hoá thành oxit kim loại: Fe2O3, As2O3, Sb2O3, Cu2O, PbO… và khí SO2. Trong đó các oxit kim loại được tạo thành As2O3, Sb2O3, PbO dễ bay hơi, còn Ag2O3 dễ bị phân ly thành bạc kim loại.
Quá trình thiêu có thể thực hiện trong nhiều loại lò như: Lò thiêu ống quay, lò thiêu nhiều tầng và lò thiêu lớp sôi, trong đó tốt nhất là lò thiêu lớp sôi.
2.2. Phương pháp oxy hóa hóa học
Bản chất của phương pháp là ôxy hoá các sunfua trong dung dịch ở áp suất cao để phá vỡ cấu trúc của quặng vàng sunfua, chuyển thành dạng sunfat hoà tan. Trong trường hợp này các hạt vàng mịn nằm lại ở cặn và sẽ được xử lý tiếp bằng các phương pháp xianua, amangam hay nấu luyện để thu hồi vàng.
Phương pháp hòa tách cao áp thường được thực hiện trong dung dịch axit sunfuric hoặc amoniac. Quá trình tiến hành như sau: quặng tinh cùng với dung môi nạp vào ôtôcla dùng hơi nước nhiệt độ cao đun nóng bùn quặng lên 120 -130oC và sục không khí hay oxy áp suất cao vào để oxy hóa các sunfua. Cơ chế của quá trình xảy ra như sau và phụ thuộc vào nhiệt độ:
2FeS + 2H2SO4 + O2 = 2FeSO4 + 2S + 2H­2O
Riêng đối với asenopirit thì quá trình phân hoá khó khăn hơn, nhiệt độ phân hoá là 150oC, sản phẩm sau quá trình chuyển hoá là ngoài lưu huỳnh còn có sunfat sắt và axit asenic:
4FeAsS + 14O2 + 4H2O + 2H2SO4 = 2Fe2(SO4)3 + 4H3AsO4
sản phẩm sunfat sắt lại tiếp tục bị oxy hoá để tạo thành sắt asenat (FeAsO4) là chất không hoà tan và là tác nhân gây hại cho quá trình trích ly.
Nhược điểm của phương pháp hòa tách áp lực trong môi trường nước hoặc axit là phản ứng xảy ra ở nhiệt độ 120oC để đảm bảo cho sự phân huỷ hoàn toàn của pirit hay asenopirit. Nhưng ở nhiệt độ này lưu huỳnh sinh ra lại bị nóng chảy, bao phủ lên bề mặt hạt quặng, làm cho quá trình oxy hoá không triệt để và sẽ cản trở quá trình hòa tách xyanua sau này.
2.3. Phương pháp oxy hoá vi sinh vật
Cơ chế của quá trình oxy hoá vi sinh là các loại vi sinh vật được xem như là một tác nhân xúc tác dưới áp suất và nhiệt độ thường. Các vi sinh vật này có tác dụng thúc đẩy tốc độ oxy hoá lên hàng ngàn hàng vạn lần, có khi là hàng triệu lần.
Chủng loại vi sinh được sử dụng phổ biến là thiobacillus-ferrooxidans. Ngoài ra còn sử dụng trong quy mô phòng thí nghiệm với các chủng loại: thiobacillus- cuprinus, thiobacillus- ferrooxidans. Chủng vi sinh này chủ yếu để oxy hoá các khoáng vật pirit và asenopirit. Phản ứng oxy hoá được viết như sau:
- Đối với pirit:
2FeS2 + 15/2O2 + H2O = Fe2(SO4)3 + H2SO4
4FeSO4 + O2 + 2H2SO4 = 2Fe2(SO4)3 + 2H2O
     FeS2 + 2Fe3+ = 3Fe2+ + 2S                                    
     2S + 3O2 + 2H2O = 2H2SO4          
- Đối với asenopirit phản ứng tổng thể được viết:
2FeAsS + 7O2 + 2H2O + H­2SO4 = Fe2(SO­4)3 + 2H3AsO
Cơ chế của quá trình oxyt hóa vi sinh còn nhiều ý kiến bàn cãi. Một số cho rằng ban đầu vi sinh gặm mòn vùng ngoại biên của hạt quặng tại những chỗ tập trung nhiều vàng nhất, sau đó tiến sâu và phá vỡ cấu trúc ổ chứa vàng đó. Vì vậy chỉ cần oxy hoá một phần cũng đã có thể nâng cao được hiệu suất thu hồi vàng lên rất lớn. Tuy nhiên hiện nay Việt Nam chưa có điều kiện nghiên cứu thấu đáo về phương pháp này.
2.4. So sánh các phương pháp ôxy hóa
Phương pháp thiêu oxy hóa có nhiều ưu điểm nổi trội hơn so với phương pháp hòa tách octocla (Bảng 1). Trong điều kiện hiện có của Việt Nam, đây là phương pháp được coi là hữu hiệu nhất dùng để xử lý vàng chứa trong các khoáng sunfua, pyrit, asenopyrit ...
Trên thế giới phương pháp hòa tách vi sinh vật cũng được sử dụng khá phổ biến không những cho quặng nghèo sunfua chứa vàng mà còn cho cả thu hồi Cu, U… Vì vậy cần phải lưu ý nghiên cứu triển khai trong thời gian tới.
Bảng 1. Bảng so sánh về giá thành giữa phương pháp
thiêu oxy hóa và phương pháp hòa tách năm 2007
Chi phí, USD/tấn
Thiêu oxy hóa
Hòa tách oxy hóa
Chênh lệch
Nhân công
2,2
3,15
0,95
Bảo dưỡng
2,40
4,20
1,80
Thuốc thử
2,00
3,20
1,20
Năng lượng
4,10
3,65
- 0,45
1,35
0,85
- 0,50
Tổng
12,05
15,05
3,0
3. Mẫu và thiết bị nghiên cứu
3.1 Mẫu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quặng tinh vàng gốc khu mỏ Trà Năng - Lâm Đồng. Nghiên cứu thành phần vật chất mẫu nghiên cứu bằng các phương pháp phân tích rây, hoá toàn phần, phân tích trọng sa, nhiễu xạ rơnghen và nhiệt vi sai để xác định thành phần khoáng vật.
a) Kết quả phân tích thành phần độ hạt (Bảng 2)
Bảng 2. Kết quả phân tích thành phần độ hạt mẫu nghiên cứu
STT
Cấp hạt
(mm)
Thu hoạch (%)
Hàm lượng Au (g/t)
Phân bố Au (%)
Bộ phận
Luỹ tích
Bộ phận
Luỹ tích
3
+1
0.67
0.67
0.00
0.00
0.00
4
0,5 - 1
11.61
12.28
162.93
13.04
13.04
5
0,25 - 0,5
20.63
32.91
187.25
26.09
39.13
6
0,1 - 0,25
52.90
85.81
134.4
43.48
82.61
7
0,074 - 0,1
5.72
91.53
148.6
4.35
86.96
8
- 0,074
8.47
100.00
221.75
13.04
100.00
Tổng cộng
100,00
 
113
 
 
b) Kết quả phân tích thành phần hóa học (Bảng 3)
Kết quả phân tích hoá toàn phần mẫu nghiên cứu bằng phương pháp Quang phổ phát xạ plasma (ICP-OES) trình bày trong Bảng 3.
Bảng 3. Thành phần hoá học toàn phần mẫu nghiên cứu
Nguyên tố
Au
Ag
As
Pb
Fe2O3
S
B
SiO2
Đơn vị
g/t
%
Kết quả
113
70,7
29,75
0,6
48,13
16
0,17
3,15

TS. Nguyễn Đức Quý -Hội Tuyển khoáng Việt Nam