Thời gian gần đây, chuyện Công ty TNHH thương mại vàng Phước Sơn (thuộc Tập đoàn Besra) đổ nợ hàng chục tỷ đồng đã làm “nóng” dư luận về vấn đề khai thác khoáng sản thô trong nước. Thực tế nhiều năm qua đã minh chứng lợi nhuận từ việc khai thác này chỉ có doanh nghiệp (DN) được lợi, còn thiệt hại địa phương lãnh đủ.
GÓP CỔ PHẦN, NGƯỜI DÂN LÃNH NỢ
Những ngày qua, cuộc sống của hàng trăm hộ dân ở “thiên đường vàng” Phước Sơn (huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam) bị đảo lộn vì Công ty TNHH thương mại vàng Phước Sơn xù nợ. Bức xúc, ngày 26-12-2013 hơn 200 người từ bà bán rau, cô hàng tạp hóa đến đại diện các công ty lớn, nhỏ cùng kéo đến bao vây Nhà máy vàng Đắk Sa gây áp lực mong đòi được nợ.
Ngoài những tiểu thương nhỏ lẻ, DN này còn nợ Công ty Quảng An 18 tỷ đồng. Quảng An được thành lập trên cơ sở trở thành đối tác chính của Công ty vàng Phước Sơn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, vận chuyển quặng, cho thuê máy móc thiết bị... Ngoài vốn tự có và vay ngân hàng, còn lại là của người dân địa phương hùn vào với tư cách cổ đông. Đầu năm 2013 công ty thay đổi giám đốc, từ đó số nợ của đối tác bắt đầu chậm trễ và có dấu hiệu “xù”. Vì vụ đổ nợ động trời này, ông Đỗ Ngọc Thắng - Chủ tịch UBND thị trấn Khâm Đức - đã viết đơn xin từ chức để đi đòi nợ cho những cổ đông góp vốn vào Công ty Quảng An của ông.
TRĂM HẠI ĐỔ RA MÔI TRƯỜNG
Nước ta có nguồn quặng sa khoáng titan khá lớn, tập trung chủ yếu ở vùng ven biển các tỉnh miền Trung: Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Nam, Phú Yên... với tổng trữ lượng khoảng 664 triệu tấn quặng tinh. Trong đó, 83% sa khoáng titan tập trung ở những địa phương có tầng cát đỏ như Ninh Thuận, Bình Thuận và phía bắc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Theo thống kê, đến nay có 38 khu mỏ và 18 xưởng sàng lọc tinh quặng của 40 đơn vị đăng ký khai thác sa khoáng titan, cho ra đời 2 triệu tấn/năm.
Bình Thuận có trữ lượng titan gần 600 triệu tấn ở tầng sâu 100 mét, lớn nhất Đông Nam Á nên tình trạng khai thác trái phép diễn ra khá phổ biến. Lâu nay các dự án chỉ tận thu bề mặt chừng 3 - 5 mét với khoảng 1 triệu tấn. Toàn bộ quá trình được thực hiện theo kiểu “cuốn chiếu”: dùng nguồn nước ngầm tại chỗ tuyển quặng titan, xong hoàn thổ và khai thác tiếp vị trí kế cận. Điều này vô tình tạo ra những hồ chứa bùn không cố định, mọc lấn theo vị trí khai thác từng ngày. Do khí hậu nắng nóng quanh năm, nguồn nước ngọt ở đây càng trở nên quý hiếm trong khi việc sàng lọc titan cần rất nhiều nước nên nhiều công ty lén lấy nước biển đãi titan để giảm chi phí. Việc làm này khiến đất đai sau khai thác trở nên khô cằn, mất chất dinh dưỡng... Muốn cải tạo lại phải tốn rất nhiều chi phí và nước ngọt vốn đã khan hiếm tại địa phương.
Đã có bốn vụ vỡ hồ chứa bùn của các công ty khai thác sa khoáng titan gây ảnh hưởng đến tài nguyên đất, nước ngầm của khu vực. Theo Cục Thẩm định đánh giá tác động môi trường (Bộ Tài nguyên - Môi trường), việc khai thác titan thô tàn phá cảnh quan thiên nhiên, nguồn nước ngọt bị ô nhiễm, nhiễm mặn, dễ gây hiện tượng hoang mạc hóa khiến đường giao thông nhanh xuống cấp do quá trình vận chuyển. Bên cạnh đó, một số chủ đầu tư dự án khai thác titan không hoàn thổ như hiện trạng ban đầu, lơ là trong khâu gia cố hồ chứa bùn, đến khi xảy ra sự cố thì người dân địa phương lãnh đủ.
Ngoài ra, việc khai thác vàng thô cũng “nóng” không kém, góp phần tàn phá môi trường trong khi chỉ mang lại lợi ích rất nhỏ cho cộng đồng. Vàng là kim loại có phế thải khi khai thác lớn nhất do độ quý hiếm của nó. Để có 1 ounce (28,35g) vàng thành phẩm phải đào 79 tấn đất đá. Hiện có ba phương pháp chính tách vàng ra khỏi quặng gồm: xianua, amangam và cupen. Tất cả đều thải ra những chất vô cùng độc hại như xianua, thủy ngân, chì. Trung bình, để làm ra một chiếc nhẫn vàng bình thường có đến 18 tấn phế thải xả ra môi trường.
Từ khi tin đồn rừng phòng hộ đầu nguồn ở xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có mỏ vàng, nhiều người kéo đến tàn phá, đào bới, lật tung rừng mong đổi đời. Các hồ chứa nước Đồng Quang, hố Cọp, hố Khế dưới chân khu vực khai thác và nhiều giếng quanh vùng đều ngả màu do ô nhiễm từ chất thải, hóa chất dùng trong đãi vàng xả trực tiếp ra môi trường. Gia súc trong vùng mắc bệnh lạ, chết dần mòn theo năm tháng khiến người dân hoang mang, lo lắng...
Theo thống kê, từ năm 2008 đến tháng 6-2011 toàn quốc đã chuyển mục đích sử dụng 11.312ha rừng và đất lâm nghiệp sang khai thác khoáng sản, trong đó không ít trường hợp bị lợi dụng để khai thác lâm sản trái phép. Nhiều địa phương sau khi cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lâm nghiệp thì buông xuôi, không kiểm tra, tạo điều kiện cho đối tượng xấu tung hoành.
Quá trình tuyển rửa quặng cũng làm gia tăng hàm lượng bùn đất trong nước, gây bồi lắng sông suối, ảnh hưởng đến các công trình thủy lợi, nguồn nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Năm 2012, người dân thôn Phú Hữu, xã Ân Tường Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định phải bỏ hoang lúa hai vụ vì sợ chất thải độc hại từ bãi vàng Công ty TNHH thương mại Đức Nghĩa xả thẳng xuống ruộng.
Hoạt động liên tục hơn 30 năm qua, suối Damrông chảy qua vùng Định Quán đã biến thành “vùng đất chết” do hoạt động của mỏ bô xít Bảo Lộc. Mỏ này tuyển ra bô xít thương phẩm để đưa về Nhà máy hóa chất Tân Bình (TPHCM) sản xuất hydroxit nhôm dùng làm chất phụ gia trong ngành sành sứ, vật chịu lửa hay sản xuất phèn nhôm lọc nước. Mỗi năm, mỏ khai thác khoảng 260.000 tấn quặng nguyên để cho ra 120.000 tấn quặng tinh.
Việt Nam là một trong những nước có tiềm năng lớn về quặng bô xít dùng để sản xuất nhôm với trữ lượng khoảng trên 5,4 tỷ tấn nguyên khai, tập trung chủ yếu ở Tây nguyên. Bất chấp sự phản đối của dư luận và các chuyên gia đầu ngành từng cảnh báo về tác hại môi trường, hai dự án Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) với tổng cộng 13 mỏ bô xít vẫn được đưa vào hoạt động gần ba năm qua. Chưa tính đến thiệt hại môi trường, khi lô hàng alumin đầu tiên rời Nhà máy bô xít Tân Rai về cảng Gò Dầu để xuất ngoại đã khiến cung đường này phải gồng mình “gánh” lượng xe quá tải từ 6 - 19 tấn.
“KHUYẾN MÃI” BỆNH TẬT
Hơn 10 năm qua, từ khi các công ty bắt đầu khai thác cát trên sông Hậu, đầu nguồn xã Tân Thuận Đông (TP.Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) đã khiến người dân địa phương luôn thấp thỏm lo bị “cướp trắng” tài sản. Ông Phạm Thành Được - Chủ tịch UBND xã - cho biết: “Từ ngày nước chảy xiết, phần đất lở sâu vô hơn 50 mét, kéo dài chừng 400 mét, ảnh hưởng đến tài sản của 41 hộ dân trong xã, buộc phải di dời khẩn cấp”.
“20 năm trở lại đây, tôi đã bị nuốt bốn căn nhà và hàng trăm mét vuông đất trồng xoài, chuối mưu sinh. Từ khi có mấy ghe cát đến khai thác ngày đêm, người dân sống ven sông chúng tôi cứ bị nuốt trôi tài sản, đất đai, nhà cửa mỗi năm một ít. Giờ tôi phải ở đậu nhà con cái, tương lai chưa biết lấy gì sinh sống nữa”, ông Huỳnh Hữu Nghĩa (SN 1954, ngụ ấp Đông Thạnh, xã Tân Thuận Đông) nghẹn ngào kể. Theo thống kê, hiện có gần 30 nghìn hộ ở đồng bằng sông Cửu Long nằm trong khu vực có nguy cơ cao bị sạt lở bờ sông mà nguyên nhân chính là do hoạt động khai thác cát của một số tổ chức, cá nhân gây ra.
Xã Thuận Quý, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận được ví như “thủ phủ titan”, nhưng người dân hầu như ai cũng được “khuyến mãi” các chứng bệnh về mắt, đường hô hấp do ảnh hưởng quá trình khai thác loại sa khoáng thô này. “Từ khi các công ty về khai thác, hầu hết giếng nước của chúng tôi đều bị cát đen bay vào. Dù sợ ngộ độc nhưng bà con vẫn phải sử dụng vì không tìm đâu ra nguồn khác thay thế. Riết rồi ai cũng bệnh, không chứng này thì tật kia”, ông Trần L. (57 tuổi, ngụ thôn 4) than thở.
Bà Nguyễn Thị Oanh - Trưởng trạm y tế xã Thuận Quý - ngao ngán: “Trước kia mỗi ngày chỉ có vài ba người đến khám, giờ đây lên đến hàng chục, chủ yếu là các bệnh viêm giác mạc, suy hô hấp, viêm họng...”. Có một điều nghịch lý vẫn tồn tại nơi đây: các công ty khai thác sa khoáng thu lợi bao nhiêu thì người dân phải chịu đựng “bi kịch” từ trên trời rơi xuống bấy nhiêu!
Bên cạnh đó, Nhà nước có khả năng bị thất thu thuế do tình trạng khai thác khoáng sản thô như hiện nay. Đơn cử việc khai thác titan ở Bình Thuận trong ba năm (2010-2012) thì thuế tài nguyên nước (TNN) của các công ty đăng ký khai thác nộp ngân sách chưa đến 113 triệu đồng? Thêm vào đó, năm 2012 chỉ có 5/15 DN kê khai nộp thuế TNN, 10 DN còn lại vẫn im hơi lặng tiếng. Theo tính toán, với sản lượng cấp phép cho 15 DN khai thác trong ba năm qua thì tiền thuế TNN đáng lý phải lên đến gần 10 tỷ. Phải chăng chính sự quản lý dễ dãi đã khiến các DN khai thác khoáng sản lộng quyền?
Dù xét về khía cạnh nào đi nữa thì việc khai thác khoáng sản thô như hiện nay chỉ có “trăm đường thua thiệt”, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người dân mà còn hủy hoại nghiêm trọng môi trường sống, gây thất thu cho Nhà nước. Đã đến lúc cơ quan chức năng cần xử lý nghiêm việc khai thác khoáng sản thô bừa bãi mới mong giảm thiểu những thiệt hại khôn lường.