Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Axit sunphuaric - H2SO4 - China - AR - 500ml - Hóa chất tinh khiết

Axit sunphuaric - H2SO4 - China - AR - 500ml - Hóa chất tinh khiết TQhttp://www.vietnamchemtech.com.vn/chitietSP.asp?id_pro=1696
AXIT  SUNFURIC
Acidum sulfuricum           Sulfuric acid                Schwefelsaure
                   H2SO4                              TLPT   98,082
Tính chất
H2SO4 là một chất lỏng sánh như dầu, không màu,t.l riêng 1,859 ở 0o và 1,837 ở 15o.
Khi làm lạnh  sẽ hoá rắn thành những tinh thể nóng chảy ở 10,49o. Tuy nhiên, axit lỏng dễ có thể chậm đông không hoá rắn ở dưới 0o.
   Ở 30 – 40o, bắt đầu bốc khói và khi đun tiếp sẽ tạo ra hơi SO3. Bắt đầu sôi ở 290o và nhiệt độ sẽ tăng nhanh cho tới khi ngừng giải phóng SO3. Hdrat còn lại chứa 98,3% H2SO4 và sôi ở 338o.
   H2SO4 đặc hấp thụ mánh liệt hơi ẩm và vì thế là một chất làm khô tốt, áp xuất hơi H2O trên H2SO4 cả chảy là 0,003mmHg.

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Natri clorua - bột - NaCl - TQ - 99,1% - 50kg - Hoá chất xử lý nước cấp

Natri clorua - bột -  NaCl -  TQ - 99,1% - 50kg - Hoá chất xử lý nước cấp
http://www.vietnamchemtech.com.vn/chitietSP.asp?id_pro=1691
Muối ăn hay trong dân gian còn gọi đơn giản là muối (tuy rằng theo đúng thuật ngữ khoa học thì không phải muối nào cũng là muối ăn) là một khoáng chất, được con người sử dụng như một thứ gia vị tra vào thức ăn. Có rất nhiều dạng muối ăn: muối thô, muối tinh, muối iốt. Đó là một chất rắn có dạng tinh thể, có màu từ trắng tới có vết của màu hồng hay xám rất nhạt, thu được từ nước biển hay các mỏ muối. Muối thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn hơn muối mỏ. Trong tự nhiên, muối ăn bao gồm chủ yếu là clorua nátri (NaCl), nhưng cũng có một ít các khoáng chất khác (khoáng chất vi lượng). Muối ăn thu từ muối mỏ có thể có màu xám hơn vì dấu vết của các khoáng chất vi lượng. Muối ăn là cần thiết cho sự sống của mọi cơ thể sống, bao gồm cả con người. Muối ăn tham gia vào việc điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Vị của muối là một trong những vị cơ bản. Sự thèm muối có thể phát sinh do sự thiếu hụt khoáng chất vi lượng cũng như do thiếu clorua nátri.
Muối ăn là tối thiết cho sự sống, nhưng việc sử dụng quá mức có thể làm tăng độ nguy hiểm của các vấn đề sức khỏe, chẳng hạn như bệnh cao huyết áp. Trong việc nấu ăn, muối ăn được sử dụng như là chất bảo quản cũng như là gia vị.
Muối thô
Một số người cho rằng muối thô tốt hơn cho sức khỏe hay tự nhiên hơn. Tuy nhiên muối thô có thể chứa không đủ lượng i-ốt cần thiết để phòng ngừa một số bệnh do thiếu i-ốt như bệnh bướu cổ.
Muối tinh
Muối tinh, được sử dụng rộng rãi hiện nay, chủ yếu là chứa clorua nátri (NaCl). Tuy nhiên, chỉ có khoảng 7% lượng muối tinh được sử dụng trong đời sống hàng ngày như là chất thêm vào thức ăn. Phần lớn muối tinh được sử dụng cho các mục đích công nghiệp, từ sản xuất bột giấy và giấy tới việc hãm màu trong công nghệ nhuộm vải hay trong sản xuất xà phòng và chất tẩy rửa và nó có một giá trị thương mại lớn.
Việc sản xuất và sử dụng muối là một trong những ngành công nghiệp hóa chất lâu đời nhất. Muối có thể thu được bằng cách cho bay hơi nước biển dưới ánh nắng trong các ruộng muối. Muối thu được từ nước biển đôi khi còn được gọi làmuối biển. Ở những nước có mỏ muối thì việc khai thác muối từ các mỏ này có thể có giá thành thấp hơn. Các mỏ muối có lẽ được hình thành do việc bay hơi nước của các hồ nước mặn cổ. Việc khai thác các mỏ muối này có thể theo các tập quán thông thường hay bằng cách bơm nước vào mỏ muối để thu được nước muối có độ bão hòa về muối.
Sau khi thu được muối thô, người ta sẽ tiến hành các công nghệ làm tinh để nâng cao độ tinh khiết cũng như các đặc tính để dễ dàng vận chuyển, lưu giữ. Việc làm tinh muối chủ yếu là tái kết tinh muối. Trong quá trình này người ta sẽ làm kết tủa các tạp chất (chủ yếu là các hợp chất của magiê và canxi). Quá trình bay hơi nhiều công đoạn sau đó sẽ được sử dụng để thu được clorua nátri tinh khiết và nó được làm khô.
Các chất chống đóng bánh hoặc iốtua kali (KI) (nếu làm muối iốt) sẽ được thêm vào trong giai đoạn này. Các chất chống đóng bánh là các hóa chất chống ẩm để giữ cho các tinh thể muối không dính vào nhau. Một số chất chống ẩm được sử dụng là tricanxi phốtphát, cacbonat canxi hay magiê, muối của các axít béo, ôxít magiê, điôxít silic, silicat nátri-nhôm, hay silicat canxi-nhôm. Cũng lưu ý rằng có thể có độc tính của nhôm trong hai hóa chất sau cùng, tuy nhiên cả liên minh châu Âu (EU) và FDA của Mỹ vẫn cho phép sử dụng chúng với một liều lượng có điều chỉnh.
Muối tinh sau đó được đóng gói và phân phối theo các kênh thương mại.
Các hiệu ứng sức khỏe
Natri là một trong những chất điện giải cơ bản trong cơ thể. Quá nhiều hay quá ít muối ăn trong ăn uống có thể dẫn đến rối loạn điện giải, có thể dẫn tới các vấn đề về thần kinh rất nguy hiểm, thậm chí có thể gây chết người. Việc sử dụng quá nhiều muối ăn còn liên quan đến bệnh cao huyết áp.
Các chất thay thế cho muối ăn (với mùi vị tương tự như muối ăn thông thường) cho những người cần thiết phải hạn chế ion natri Na+ trong cơ thể, chủ yếu là chứa clorua kali(KCl).
Lợi ích khác của muối
Muối dùng để ướp các thực phẩm tươi sống như cá, tôm, cua, thịt trước khi chế biến để tránh bị ươn, hư, dùng làm chất bảo quản cho các thực phẩm, để làm một số món ăn như muối dưa, muối cà, làm nước mắm,... Do có tính sát trùng nên muối ăn còn được pha loãng làm nước súc miệng hay rửa vết thương ngoài da.
Muối ăn không chỉ dùng để ăn mà còn dùng cho các việc khác trong ngành công nghiệp đặc biệt là ngành hóa chất:
2NaCl + 2H2O ( điện phân dung dịch có màng ngăn )-> 2NaOH + H2 + Cl2
NaOH dùng làm điều chế xà phòng, công nghiệp giấy. H2 làm nhiên liệu, bơ nhân tạo, sản xuất axit. Cl2 sản xuất chất dẻo, chất diệt trùng và sản xuất HCl
NaCl ( điện phân nóng chảy ) -> Na + 1/2Cl2
Na điều chế hợp kim, chất trao đổi nhiệt
2NaOH + Cl2 -> NaCl + NaClO + H2O
NaClO là chất sản xuất tẩy rửa, diệt trùng
NaClO + H2O + CO2 -> NaHCO3 + HClO
NaHCO3 dùng để sản xuất thủy tinh, xà phòng, chất tẩy rửa tổng hợp


Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

KEO THIÊN NHIÊN - KEO DÁN CÓ NGUỒN GỐC THƯC VẬT

KEO THIÊN NHIÊN - KEO DÁN CÓ NGUỒN GỐC THƯC VẬT
Khác với keo động vật, về bản chất hóa học hầu như chỉ là những chất protit, các loại keo thực vật đa dạng và phong phú hơn. Có chất thuộc loại polisacarit (tinh bột, đextrin), có chất là poliphenol (sơn ta, dầu đào lộn hột) có chất là chất béo (dầu trùng hợp), có chất là hidrocacbon (cao su thiên nhiên) và cũng có chất là protit.
Keo thực vật có bản lượng lớn và chiếm vị trí quan trọng trong công nghiệp keo dán nói chung. Chúng có thể được sử dụng dưới dạng dơn chất, có thể phối hợp và cũng có thể được chuyển hóa hóa học thành những chất có tính năng tốt hơn.
1.     Tinh bột và dẫn xuất
Tinh bột là loại keo dán bồi giấy thông dụng nhất mà chúng ta thường gặp hàng ngày. Đó là sản phẩm nghiền nhỏ của nhiều loại hạt (mì, gạo tẻ, gạo nếp), loại củ (khoai tây, khoai lang, sắn, dong…) màu trắng, dạng bột, có kích thước từ 80 micron (bột khoai tây) đến 5 micro (bột gạo). Trong nước nóng (khoảng 60 đến 77oc),các tiểu phân này bị trương nở, thành một thứ hồ đặc. Nếu xử lý tinh bột bằng hơi nước nóng, sẽ thu được keo dị thể bao gồm các tiể phân bị trương nở. Trộn cho đồng nhất sẽ hình thành một dung dịch có tính tạo màng cao sau khi đông cứng.
   Về bản chất hóa học, hầu hết các tinh bột đều có thành phần bao gồm 75% hidratcacbon phân nhánh là amilopectin (có khối lượng phân tử khoảng 13600) và 25% amiloza. Chính amiloza có đại phân tử không phân nhánh đã gây nên tính tạo gel của tinh bột. Nếu tách riêng 2 thành phần này, ta thấy màng amilopectin sấy khô tương đối gòn, trong khi đó màng amiloza mỏng hơn và rất giống với màng xenluloza.
   Việc tách riêng 2 thành phần này-amiloza và amilopectin không phải là điều khó khăn, nhưng với những mục đích sử dụng tinh bột thông thường, trong đó có mục đích làm keo dán, người ta không cần thiết phải tách riêng chúng.
   Để cải tiến độ nhớt và khả năng kết dính của tinh bột người ta thường phân hủy hay biến tính chúng bằng men (chẳng hạn men maltaza), bằng những axit vô cơ, bằng các tac nhân oxi hóa hay đơn giản hơn cả là bằng oxit hóa và dextrin.
   Các sản phẩm biến tính của tinh bột nói chung có độ nhớt thấp, hàm lượng chất rắn cao, khả năng kết dính tốt và mối dán bền chác.
            a) Tinh bột hòa tan. Trong số các sản phẩm tinh bột biến tính, sản phẩm “cổ” nhất cũng rẻ nhất là xử lý (ướt) tinh bột bằng axit hoặc (sấy) với axit. Người ta cũng có thể thu được tinh bột hòa tan bằng cách đun huyền phù tinh bột trong nước với một lượng nhỏ axit tại nhiệt độ dưới điểm keo hóa học và khi ngừng đun, trung hòa đến trung tính.
b)Tinh bột oxit hóa. Tinh bột oxit hóa dùng để “ trang hoàng”có chất lượng cao. Để thu được loại này, người ta xử lý “ướt” tinh bột với dung dịch natri hipoclorit, cho nên đôi khi còn gọi là “tinh bột clo hóa”. Một trong những mục đicha của tinh bột oxi hóa trong keo dán là để làm đông tụ dung dịch dextrin.
            c) Dextrin.
Dextrin là tên chung để chỉ các sản phẩm thu được khi đun nóng tinh bột ở trạng thái khô “ rang”. Áp dụng 3 chế độ công nghệ khác nhau, người ta có 3 loại dextrin : dextrin trắng, dextrin vàng và “ gôm anh” (Britishgum) như sau (bảng 1)
    Bảng 1
   Ảnh hưởng của chế độ công nghệ đến các loại dextrin
Chế độ công nghệ
Dextrin trắng
Dextrin vàng
Gôm Anh
Xúc tác
Nhiệt độ, 0C
Thời gian, giờ
Tính chất sản phẩm
Mầu sắc
Độ tan %
Thường pha loãng (phần nước)
Axit clohidric
79_‑ 121
3        ‑  8
Trắng đến vàng nhạt
ف   -   98
  2  -  5
Axit clohidric
149    ‑  218
   6 – 8
Vàng nhạt đến nâu
90    -  100
 < 1
Không xúc tác
Hoặc kiềm
135 – 218
㺊  ‑  20
Vàng đậm đến nâu sẫm
135    -  218
    3  -  10
Dextrin trắng điều chế bằng cách đun nóng nhẹ tinh bột với xúc tác axit (khoảng 0,12% HCL). Sự chuyể hóa sẩy ra nhanh chóng ngay khi nhiệt độ khá thấp, mầu vàng nhạt, độ tan thay đổi theo thời gian và nhiệt độ nấu, khả năng dính cao.
            Dextrin vàng thu được ở nhiệt độ cao, nhiệt độ cao hơn, có độ nhớt ổn định và hàm lượng chất rắn lớn.
            Gôm anh sấy ở nhiệt độ cao, không có xúc tác hoặc thêm một lượng nhỏ Na2CO3, NaHCO3 hay NH4OH.Sản phẩm có mầu tối, tan ít trong nước lạnh. Độ nhớt cao. Đây là thành phần pha chế keo dán rất tốt.
            Nguyên liệu để sản xuất 3 loại dextrin này là tinh bột của hạt hoặc củ. Bột khoai tây, bột sắn dễ chuyển hóa và sản phẩm có chất lượng tốt. Bột cao, bột mì khó chuyển hóa hơn.
   Có thể sản xuất dextrin trắng như sau:
   Ngâm 800kg bột sắn trong 400 lít nước, có pha 16 kg axit clohidric 35% và trải mỏng, phơi khô trong 3 ngày. Sau đó, đun nhẹ cho khô hẳn, rồi sấy tại 100oC trong 3-5 giờ.
   Keo dextrin thường có công thức:
                              Dextrin               55g
                              Phèn chua           0,05g
                              Nước                  45g
Dùng để gián giấy, bìa, các tông.
   Muốn keo có độ dính tốt hơn, người ta thay thế nước thường bằng nước oxi già 50 Bé theo công thước
                             Dextrin                55g
                            Nước oxi già        44,5 ml
                            Hàn the                0,5g
   Trước hết hòa tan hàn the trong nước oxi già, khuấy với dextri và đun nhẹ cho tới khi tan hết. Keo rất dính.
   Để dán giấy có độ kết dính rất cao nên các vật liệu khác như sắt tây sành sứ, thỷ tinh, người ta làm như sau: trộn dung dịch A (Dextrin 55 kg, hàn the 1 kg, nước sôi 45 kg) và trộn dung dịch B (Xút 400 Bé 10kg, nhựa thông nghiền mịn 30kg, nước sôi 60kg), cho tớn khi hòa tan hoàn toàn. Sau đố, đổ dung dịch A vào dung dịch B khuấy thật kỹ.
   Từ dextrin trắng, nấu với nước,người ta thu được keo lỏng, nhưng sau vài ngày, đặc lại thành hồ dùng để gián giấy, các tông… keo dextrin lỏng thu được khi hòa tan 30 – 60% chất rắn trong nước, thêm borax và các hóa chất khác. Độ nhớt của keo khá cao, mầu từ tắng đến nâu sậm. tín kết dính tốt.
   Tứ dextrin vàng, có thể sản xuất keo chứa 60 – 72% chất rắn, có phản ứng axit yếu, dùng để dán tất cả các loại nhãn,boa bì bằng giấy dày…
   Keo từ tinh bột rất phổ biến và dễ kiếm Có thể hòa tinh bột trong nước gia nhiệt, khuấy đều (quấy hồ) cũng có thể pha chế với các loại hóa chất khác. Thí dụ keo kiềm – tinh bột có thành phần (%).
                          Tinh bột                 33,4
                          Nước                     50,0
                         Xút (NaOH)          16,6
   Trộn tinh bột với nước thêm dần NaOH và khuấy đều ở nhiệt độ thường sẽ tạo thành keo đồng nhất, rất dính. Các chất như canxi, mangie, clorua…làm keo dẻo hơn, hòa tan tốt hơn.
   Người ta còn phối hợp tinh bột với keo tổng hợp để phát huy ưu điểm của cả 2 loại keo này. Chẳng hạn nhựa ure – formaldehit ngăn ngừa tinh bột tan trong nước, sau đó, nhựa trùng hợp thành dạng không hòa tan.

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

NHƯNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ KEO DÁN

NHƯNG HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ KEO DÁN
 Hiểu theo nghĩa thông thường, keo dán là những chất có khả năng kết dính được các vật liệu một cách tương đối bền chác bằng tác dụng bề mặt của mình,
   Nhiều tài liệu trên thế giới đã chứng minh loài người đã biết dùng keo dán từ 3000 năm trước công nguyên, qua việc khai quật những quy trình kiến trúc cổ.
   Ở nước ta, keo dán cũng được sử dụng rất sớm : người xưa đã dùng sơn ta để ghép gỗ, sảm thuyền, pha chế nhựa cây để bẫy chim, thú,bồi giấy, làm buồm…
   Mãi đến thế kỷ trước, keo dán vẫn chỉ hạn chế trong những chất có nguồn gốc thiên nhiên từ thực vật như nhựa cây, tinh bột, sơn ta… từ động vật như keo tiết, keo cá, keo da trâu… Ai cũng thấy những loại keo dó không bền, dễ tan trong nước, không dính được tính kết dính khi thời tiết ẩm ướt, nhiều loại vi sinh vật phá hoại khiến cho những đồ vật dán không bảo quản được lâu dài… Khoa học‑ kỹ thuật phát triển dặt ra những yêu cầu mới đối với keo dán, mà những loại keo (cổ truyền ) không đáp ứng được.
   Từ cuối thế kỷ 19, một nghành hóa học mới xuất hiện : hóa học các hợp chất cao phân tử, nó đánh dấu một bước ngoặt mới trong lịch sử hóa học. Người ta đã tổng hợp được hàng loạt các hợp chất có tính năng độc đáo chưa hề có ở những hợp chất sẵn có trong thiên nhiên.
   Trong thời gian không đầy một thế kỷ, hàng trăn chủng loại keo dán mới ra đời từ các hợp chất cao phân tử.Chúng khắc phục được những nhược điểm của keo dán từ nguyên liệu thiên nhiên: độ bền của mối dán tăng lên rất nhiều, đôi khi cao hơn cả bản thân vật liệu hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi thời tiết và vi sinh vật chịu lạnh, chịu nóng ( chẳng hạn keo từ cao phân tử vô cơ và cơ kim bền nhiệt độ 1000oC hay hơn nữa), chịu hóa chất… Kỹ thuật dán cũng thay đổi . Cách dán bằng keo nóng chảy trước đây 60 năm người ta chưa thể hình dung ra. Vật liệu có thể dán được với nhau ngày càng mở rộng: thủy ntinh, kim loại, cao su, chất dẻo gốm sứ,grafit,vải sợi, bê tông… Với các loại keo tổng hợp, kỹ thuật dán đã thâm nhập vào mọi nhành công nghiệp như nghành sản xuất đồ gỗ, đóng giầy dép, xây dựng,chế tạo máy, sản xuất ô tô, máy bay, tên lửa, kỹ thuật điện và điện tử… thậm trí keo còn được dùng trong việc dán xương gãy, dán các vết mổ tha thế cho phương pháp khâu thông thường.
   So sánh với những phương pháp dùng để liên kết các vật liệu khác như hàn the, tán rivê, bắt vít, bu lông… thì trong nhiều trường hợp kỹ thuật dán tỏ ra có nhiều ưu điểm như nhanh chóng, giảm được giá thành sản xuất, giảm khối lượng,công nghệ đơn giản, đảm bảo được tính thẩm mỹ… tuy có một số hạn chế nhất định, nhưng rõ ràng cùng với những phương pháp để liên kết các chi tiêt, các vật liệu khác. Kỹ thuật dán là một phương pháp không thể thay thế được trong nhiều lĩnh vực. Biết bao nhiêu thí dụ thực tế đã nói lên vai trò của kỹ thuật dán và của keo dán trong những nghành mũi nhọn của thời đại. Hàng nghìn chi tiết trong máy baymteen lửa, tàu vũ trụ được ghép nối bằng keo, hàng trăm linh kiện trong các máy tính cực nhanh, các thiêt bị điện tử, vi điện tử đã sử dụng keo, Nhiều chiếc cầu bắc trên những dòng sông, chịu trọng tải lớn cũng như những biến động của thời tiết đã thay thế những mối hàn kim loaị vít, ốc, bulông hoặc rivê bằng những mối dán băng keo tổng hợp. Keo xây dựng gắn một cách bền chắc những khối bê tông làm các công trình xây dựng thêm nhẹ nhàng, thanh thoát và giảm hẳn thời gian thi công…

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

Perfector - R: Công nghệ xử lý nước tiên tiến cho các nước đang phát triển

Hệ thống xử lý nước tiên tiến
Thiết kế của Perfector R là thành quả 3 năm làm việc kết hợp của các chuyên gia của PWN, công ty nước hàng đầu Hà Lan và các kỹ sư giàu kinh nghiệm. Trên cơ sở phân tích các ưu nhược điểm của các hệ thống xử lý nước mặt hiện có, Perfector - R ra đời.
Với thiết kế dạng module bao gồm: Cầu phao thu nước, hệ thống xử lý, hệ thống trộn và châm hóa chất, bể chứa nước sạch, trạm bơm phân phối, phòng điều khiển và các hạng mục khác như máy phát điện, phòng thí nghiệm, xưởng cơ khí và văn phòng... Khách hàng có thể tùy chọn xây một hệ thống mới hoàn toàn trên diện tích mới hoặc nâng cấp hệ thống sẳn có cũng như lựa chọn công suất cho từng module với khả năng nâng cấp trong tương lai.

Chỉ chọn những gì bạn cần
Với thiết kế module, khách hàng có thể tùy chọn xây một hệ thống mới hoàn toàn trên diện tích mới hoặc nâng cấp hệ thống sẳn có.
Thiết kế module bao gồm
Cầu phao thu nước, hệ thống xử lý, hệ thống trộn và châm hóa chất, bể chứa nước sạch, trạm bơm phân phối, phòng điều khiển và các hạng mục khác như máy phát điện, phòng thí nghiệm, xưởng cơ khí và văn phòng …Tùy chọn trạm bơm và thu nước thải
Thiết kế của Perfector R là thành quả 3 năm làm việc kết hợp của các chuyên gia của PWN, công ty nước hàng đầu Hà Lan và các kỹ sư giàu kinh nghiệm. Trên cơ sở phân tích các ưu nhược điểm của các hệ thống xử lý nước mặt hiện có, Perfector - R ra đời.
Với thiết kế dạng module bao gồm: Cầu phao thu nước, hệ thống xử lý, hệ thống trộn và châm hóa chất, bể chứa nước sạch, trạm bơm phân phối, phòng điều khiển và các hạng mục khác như máy phát điện, phòng thí nghiệm, xưởng cơ khí và văn phòng... Khách hàng có thể tùy chọn xây một hệ thống mới hoàn toàn trên diện tích mới hoặc nâng cấp hệ thống sẳn có cũng như lựa chọn công suất cho từng module với khả năng nâng cấp trong tương lai.
Hoạt động cực kỳ hiệu quả
Thiết kế Perfector-R cho chất lượng nước hoàn hảo nhờ vào:
- Hệ thống trộn hóa chất hiệu quả
- Thiết bị tạo bông tủa bên trong có thể được hiệu chỉnh theo chất lượng nước thô
- Thiết kế lắng tốt hơn thông thường
- Hệ thống lọc phù hợp
Đầu tư xứng đáng
So với các hệ thống xử lý nước mặt khác, thiết kế của Perfector R mang đến cho bạn:
- Chi phí đầu tư tương đượng thậm chí thấp hơn
- Chi phí vận hành và bảo dưỡng thấp
- Cho chất lượng nước tương đương thậm chí tốt hơn
Thiết kế cải tiến hàng đầu
Thiết kế của Perfector R là thành quả 3 năm làm việc kết hợp của các chuyên gia của PWN, công ty nước hàng đầu Hà Lan và các kỹ sư giàu kinh nghiệm. Trên cơ sở phân tích các ưu nhược điểm của các hệ thống xử lý nước mặt hiện có, Perfector-R ra đời:
- Có thể xây dựng dể dàng
- Có thể xử lý hầu hết các loại nước mặt, bất kể là sông, hồ hay kênh rạch.
- Đảm bảo hoạt động ổn định bất kể sự thay đổi chất lượng nước thô.
- Chu trình hoạt động tối ưu
- Dể dàng vận hành và bảo trì nhờ vào thiết kế có hiệu quả cao và ít thành phần cơ khí
Phù hợp và đáng tin cậy
Khi mà các hệ thống xử lý khác phải bỏ cuộc thì Perfector-R tiếp tục hoạt động hiệu quả trong suốt thời gian tồn tại nhờ vào thiết kế tiên tiến:
- Dể dàng tương thích với bất kỳ sự dao động nào của mực nước và chất lượng nước thô.
- Tương thích với nước có độ đục cao.
- Dể dàng giữ cho hệ thống ở tình trạng tốt
Thân thiện với môi trường
- Ít hao tốn năng lượng và hóa chất nhờ vào quá trình xử lý được tối ưu và thủy lực hiệu quả

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

Calcium chloride dihyrate - CaCl2.2H2O - Finland - food - 25kg

Calcium chloride dihyrate - CaCl2.2H2O - Finland - food - 25kg
http://www.vietnamchemtech.com/chitietSP.asp?id_pro=555
Calcium chloride, CaCl2, is a salt of calcium and chloride. It behaves as a typical ionic halide, and is solid at room temperature. Common applications include brine for refrigeration plants, ice and dust control on roads, and desiccation. Because of its hygroscopic nature, anhydrous calcium chloride must be kept in tightly sealed, air-tight containers.

Uses

Desiccant

Drying tubes are frequently packed with calcium chloride. Kelp is dried with calcium chloride for use producing sodium carbonate. Adding solid calcium chloride to liquids can remove dissolved water. Anhydrous calcium chloride has been approved by the FDA as a packaging aid to ensure dryness (CPG 7117.02).[4]
These hygroscopic properties are also applied to keep a liquid layer on the surface of the roadway, which holds dust down.[5]

Deicing and freezing point depression

By depressing the freezing point, calcium chloride is used to usually prevent ice formation and to deice. This is particularly useful on road surfaces. Calcium chloride dissolution is exothermic, and is relatively harmless to plants and soil however, recent observations in Washington state suggest it may be particularly harsh on roadside evergreen trees.[6] It is also more effective at lower temperatures than sodium chloride. When distributed for this use, it usually takes the form of small, white balls a few millimeters in diameter, called prills. Solutions of calcium chloride can prevent freezing at temperature as low as −52 °C (−62 °F), making it ideal for filling agricultural implement tires as a liquid ballast, aiding traction in cold climates.[7]

Source of calcium ions

Calcium chloride is used to increase the water hardness in swimming pools. This reduces the erosion of the concrete in the pool. By Le Chateliers principle and the common ion effect, increasing the concentration of calcium in the water will reduce the dissolution of calcium compounds essential to the structure of concrete.[citation needed]
In marine aquariums, calcium chloride is added to introduce bioavailable calcium for calcium carbonate-shelled animals such as mollusks and cnidarians. Calcium hydroxide (kalkwasser mix) or a calcium reactor can also be used to introduce calcium, however calcium chloride addition is the fastest method and has minimal impact on pH.

Food

As an ingredient, it is listed as a permitted food additive in the European Union for use as a sequestrant and firming agent with the E number E509, and considered as generally recognized as safe (GRAS) by the U.S. Food and Drug Administration.[8] The average intake of calcium chloride as food additives has been estimated to be 160–345 mg/day for individuals.[9]
As a firming agent, calcium chloride is used in canned vegetables, in firming soybean curds into tofu and in producing a caviar substitute from vegetable or fruit juices.[10] It is commonly used as an electrolyte in sports drinks and other beverages, including bottled water. The extremely salty taste of calcium chloride is used to flavor pickles while not increasing the foods sodium content. Calcium chlorides freezing-point depression properties are used to slow the freezing of the caramel in caramel-filled chocolate bars.
In brewing beer, calcium chloride is sometimes used to correct mineral deficiencies in the brewing water. It affects flavor and chemical reactions during the brewing process, and can also affect yeast function during fermentation. Calcium chloride is sometimes added to processed milk to restore the natural balance between calcium and protein in casein for the purposes of making cheeses, such as brie, Pélardon and Stilton. Also, it is frequently added to sliced apples to maintain texture.

Medicine

Calcium chloride can be injected as intravenous therapy for the treatment of hypocalcaemia. It can be used for magnesium intoxication. Calcium chloride injection may antagonize cardiac toxicity as measured by electrocardiogram. It can help to protect the myocardium from dangerously high levels of serum potassium in hyperkalemia. Calcium chloride can be used to quickly treat calcium channel blocker toxicity, from the side effects of drugs such as diltiazem (Cardizem) — helping avoid potential heart attacks.[11]
Aqueous calcium chloride is used in genetic transformation of cells by increasing the cell membrane permeability, inducing competence for DNA uptake (allowing DNA fragments to enter the cell more readily).

Animal sterilization

Calcium chloride dihydrate (20% by weight) dissolved in ethanol (95% ABV) has been used as a sterilant for male animals. The non surgical procedure consists of the injection of the solution into the testes of the animal. Within 1 month, necrosis of testicular tissue results in sterilization.[12][13]

Other

Calcium chloride is used in concrete mixes to help speed up the initial setting, but chloride ions lead to corrosion of steel rebar, so it should not be used in reinforced concrete.[14] The anhydrous form of calcium chloride may also be used for this purpose and can provide a measure of the moisture in concrete.[15]
Calcium chloride is used in swimming pool water as a pH buffer and to adjust the calcium hardness of the water.
Calcium chloride is included as an additive in plastics and in fire extinguishers, in wastewater treatment as a drainage aid, in blast furnaces as an additive to control scaffolding (clumping and adhesion of materials that prevent the furnace charge from descending), and in fabric softener as a thinner.
The exothermic dissolution of calcium chloride is used in self-heating cans and heating pads.
In the oil industry, calcium chloride is used to increase the density of solids-free brines. It is also used to provide inhibition of swelling clays in the water phase of invert emulsion drilling fluids.
CaCl2 acts as flux material (decreasing melting point) in the Davy process for the industrial production of Sodium metal, through the electrolysis of molten NaCl.
Calcium chloride is also an ingredient used in ceramic slipware. It suspends clay particles so that they float within the solution making it easier to use in a variety of slipcasting techniques.

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

CÁC PHƯƠNG PHÁP CÔNG NGHỆ HÒA TÁCH XIANUA ĐỂ THU HỒI VÀNG TỪ QUẶNG VÀ QUẶNG TINH


CÁC PHƯƠNG PHÁP CÔNG NGHỆ HÒA TÁCH XIANUA ĐỂ THU HỒI VÀNG TỪ QUẶNG VÀ QUẶNG TINH
http://www.vietnamchemtech.com.vn/chitiet_phanmem.asp?idpm=24








Phương án công nghệ
Nam Phi
Mỹ
Austra
lia
Trung Quốc
Nga
Peru
Cana
đa
Indo
nesia
Uzbeki
stan
Papua Niu Ghine
Gana
Tanza
nia
Brazil
Mali
Chilê
Phần còn lại thế giới
Tổng thế giới
Hòa tách đống
0,0
70,1
1,3
0,2
5,5
114,1
0,0
0,9
10,9
0,0
17,2
0,0
1,2
7,5
0,0
7,0
235,9
Hòa tách thùng
0,0
0,0
0,5
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,5
Hòa tách khuấy
293,6
36,1
123,1
4,8
48,9
0,0
20,2
12,7
58,8
1,6
24,0
0,0
15,3
14,3
5,7
66,1
725,2
Hòa tách khuấy với tuyển trọng lực
13,8
20,2
28,9
0,0
0,0
0,0
44,9
0,0
0,0
0,0
0,0
26,5
0,0
17,6
9,8
3,9
165,6
Chỉ tuyển trọng lực
0,0
0,0
0,0
59,0
52,6
0,0
0,0
26,0
0,0
20,0
0,0
0,0
9,0
0,0
0,0
54,2
220,8
Chỉ tuyển nổi
0,0
9,6
20,8
9,3
0,0
0,0
0,3
0,0
6,2
0,0
0,0
10,9
0,0
0,0
11,4
18,9
87,4
Tuyển trọng lực và tuyển nổi
0,0
2,7
8,9
4,3
0,0
0,0
25,7
69,7
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
38,3
149,6
Tuyển nổi và hòa tách khuấy (hoặc  trọng lực)
1,0
0,0
0,0
22,8
4,7
0,0
8,5
0,0
0,0
0,0
4,6
0,0
0,0
0,0
0,0
30,0
71,6
Tiền xử lý toàn bộ quặng và hòa tách khuấy
0,0
106,8
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
2,5
0,0
50,4
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
5,7
165,4
Tuyển nổi, tiền xử lý và hòa tách khuấy (hoặc  trọng lực)
3,3
7,5
39,6
3,0
3,1
0,0
6,5
0,0
0,0
0,0
11,8
0,0
10,0
0,0
0,0
3,9
88,7
Công nghệ không được thống kê
31,0
8,8
35,3
113,9
66,8
59,1
22,4
2,3
7,8
2,5
0,0
10,5
6,5
0,0
11,7
175,1
553,7
Tổng cộng
342,7
261,8
258,4
217,3
181,6
173,2
128,5
114,1
83,7
74,5
57,6
47,9
42,0
39,4
38,6
403,1
2464,4









Phương án công nghệ
Nam Phi
Mỹ
Austra
lia
Trung Quốc
Nga
Peru
Cana
đa
Indo
nesia
Uzbeki
stan
Papua Niu Ghine
Gana
Tanza
nia
Brazil
Mali
Chilê
Phần còn lại thế giới
Tổng thế giới
Carbon- trong- bùn/ Carbon- trong- hòa tách
301,7
161,9
192,1
7,8
11,8
0,0
77,3
12,7
5,9
52,0
40,4
26,5
25,2
31,9
0,0
91,0
1038,2
Gạn ngược dòng (CCD) và kết tủa kẽm
10,0
8,6
0,0
22,8
5,0
0,0
2,8
2,5
0,0
0,0
0,0
0,0
6,4
0,0
15,5
14,7
88,3
Nhựa trao đổi ion
0,0
0,0
0,0
0,0
40,0
0,0
0,0
0,9
52,9
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
3,9
97,7
Kết tủa kẽm từ dung dịch
0,0
4,4
0,0
0,0
5,5
114,1
0,0
0,0
10,9
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
134,9
Carbon-trong- cột từ dung dịch
0,0
65,6
1,3
0,2
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
17,2
0,0
0,0
7,5
0,0
7,0
98,8
Nấu luyện trực tiếp từ tinh quặng tuyển trọng lực
0,0
0,0
0,0
59,0
52,6
0,0
0,0
26,0
0,0
20,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
54,2
211,8
Nấu luyện tinh quặng sunfua
0,0
12,3
29,7
13,6
0,0
0,0
26,0
69,7
6,2
0,0
0,0
10,9
0,0
0,0
11,4
57,2
237,0
Công nghệ không được thống kê
31,0
9,0
35,3
113,9
66,7
59,1
22,4
2,3
7,8
2,5
0,0
10,5
10,4
0,0
11,7
175,1
557,7
Tổng cộng
342,7
261,8
258,4
217,3
181,6
173,2
128,5
114,1
83,7
74,5
57,6
47,9
42,0
39,4
38,6
403,1
2464,4



Phương án công nghệ
Nam Phi
Mỹ
Austra
lia
Trung Quốc
Nga
Peru
Cana
đa
Indo
nesia
Uzbeki
stan
Papua Niu Ghine
Gana
Tanza
nia
Brazil
Mali
Chilê
Phần còn lại thế giới
Tổng thế giới
Nung thiêu tinh quặng tuyển nổi
0,0
0,0
35,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
7,5
0,0
0,0
3,9
46,4
Nung thiêu toàn bộ quặng
0,0
38,6
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
2,5
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
41,1
Ôtôcla tinh quặng tuyển nổi
0,0
7,5
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
2,5
0,0
0,0
0,0
10,0
Ôtôcla toàn bộ quặng
0,0
68,1
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
50,4
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
5,7
116,7
Ôxy hóa vi sinh tinh quặng tuyển nổi
3,3
0,0
4,6
3,0
3,1
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
11,8
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
25,8
Ôxy hóa vi sinh toàn bộ quặng
0,0
0,2
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,2
Clo hóa
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,0
0,5
0,5
Tổng cộng
3,3
114,2
39,6
3,0
3,1
0,0
0,0
2,5
0,0
50,4
11,8
0,0
10,0
0,0
0,0
9,6
248,2















Nhìn chung sa khoáng vàng Việt Nam có trữ lượng nhỏ. Tổng trữ lượng dự báo chỉ khoảng vài chục tấn vàng. Hàm lượng vàng trong sa khoáng thay đổi từ 0,1–1 g/m3, trong một vài sa khoáng có thể lên tới 0,8–1,5 g/m3. Chiều dày tầng sản phẩm 0,3–5 m. Lớp phủ từ 1–5 m, có sa khoáng tới 15 m.
Các kiểu nguồn gốc sa khoáng gồm có eluvi, deluvi, proluvi, hỗn hợp (proluvi–aluvi, eluvi–deluvi), karst và aluvi.
2.Vàng gốc. Khoáng hóa vàng gốc phát hiện ở nhiều nơi và có nhiều kiểu quặng hóa khác nhau. Các kiểu quặng hoá vàng chủ yếu gồm:
- Kiểu quặng hóa vàng – thạch anh. Phụ kiểu: Vàng thạch anh – ít sunfua; vàng - thạch anh - tuamalin.
- Kiểu quặng hóa vàng – thạch anh – sunfua. Phụ kiểu: Trong trầm tích phun trào axit; trong trầm tích phun trào bazan- trachyt; trong các đá biến chất; trong các đá xâm nhập.
- Kiểu quặng hóa vàng – bạc.
- Kiểu quặng hóa vàng – antimon.
- Kiểu quặng hóa vàng cộng sinh trong các loại quặng khác.
Trong đó kiểu vàng – thạch anh – sunfua là phổ biến nhất, với nhiều tụ khoáng đã được thăm dò và có khả năng trở thành các mỏ vàng có giá trị kinh tế.
4.2. Tình hình khai thác vàng ở Việt Nam
1. Khai thác vàng sa khoáng. Việc khai thác vàng sa khoáng bằng phương pháp thủ công đã tồn tại từ lâu đời. Năm 1984 bắt đầu áp dụng sơ đồ khai thác và tuyển bán cơ khí vàng sa khoáng dạng bãi bồi lòng sông với máy xúc, máy gạt và máng đãi dài. Sau đó sơ đồ công nghệ và thiết bị này được áp dụng cho cả các loại sa khoáng deluvi, proluvi và aluvi.
Gần đây, rất nhiều tàu cuốc khai thác ở hầu hết các dòng sông có vàng suốt từ Bắc chí Nam.
2. Khai thác vàng gốc
Song song với việc khai thác vàng sa khoáng, việc khai thác vàng gốc cũng diễn ra ở khắp các tụ khoáng vàng trong cả nước.
Quặng được khai thác chọn lọc từ các hầm lò thủ công và được chuyển ra ngoài để đập, nghiền nhỏ trong các máy đập búa nước. Sau đó được tuyển trên các máng ngắn hỗn hống thủy ngân và máng đãi dài để tận thu các hạt vàng tự sinh lớn và các khoáng vật sunfua chứa vàng. Sản phẩm chứa vàng được đưa đi phân kim.
Sau năm 1990, để tận thu vàng trong quặng đuôi tuyển máng đãi và trong quặng nghèo, bắt đầu phổ biến phương pháp hòa tách đống, hòa tách thùng bằng dung dịch xianua. Sau đó dùng phương pháp xi măng hóa bằng bột kẽm để thu hồi vàng từ dung dịch và đưa đi tinh chế.
Cho đến nay, duy nhất có mỏ vàng Bồng Miêu, Quảng Nam, sử dụng phương pháp hòa tách động bằng xianua và thu hồi vàng bằng chất hấp phụ than hoạt tính hoặc bằng nhựa trao đổi ion.
Gần đây, một số cán bộ khoa học Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu ở quy mô phòng thí nghiệm mở rộng quá trình hòa tách động xianua và thu hồi vàng bằng than hoạt tính cho loại hình quặng vàng–thạch anh–sunfua của các vùng Minh Lương (Lào Cai), Attapư (Lào)… Hiện đang lập dự án đầu tư để xây dựng cơ sở tuyển luyện vàng các vùng mỏ này.
Việc thu hồi vàng đi kèm trong quặng sunfua–vàng cũng đã được thực hiện tại mỏ đồng Sin Quyền, Lào Cai. Vàng đi theo quặng tinh đồng được đưa đến xưởng luyện kim. Tại đây, sau quá trình thiêu và hòa tách axit, vàng được thu hồi bằng phương pháp xi măng hóa.
3. Nhận xét
- Việc khai thác tự do quặng vàng (cả sa khoáng lẫn quặng gốc) diễn ra ở hầu khắp các vùng có tụ khoáng vàng trong cả nước.
- Công nghệ khai thác và chế biến quặng vàng thủ công, chắp vá và lạc hậu, không phù hợp với đặc điểm thành phần vật chất của mỗi loại hình quặng.
- Qui mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán và thường là khai thác trái phép do các “Cai bưởng vàng” tổ chức.
- Tình trạng khai thác không được quản lý chặt chẽ như hiện nay, vừa gây tổn thất tài nguyên vàng vừa gây suy thoái môi trường và mất trật tự an ninh xã hội ở nhiều khu vực có tụ khoáng vàng.
5. Kết luận
- Công nghệ hòa tách xianua để thu hồi vàng từ quặng nguyên và quặng tinh chứa vàng là phương pháp ngày càng phổ biến trên thế giới.
- Tùy thuộc vào loại hình thành tạo và khoáng hóa vàng, công nghệ xianua hóa vàng gồm 5 giai đoạn: Tiền xử lý, hòa tách xianua, làm sạch và làm giàu, thu hồi và tinh chế vàng.
- Công nghệ hòa tách xianua thu hồi vàng phát sinh nhiều nguồn thải ra môi trường. Cần phải có hệ thống công nghệ và thiết bị xử lý và bảo vệ môi trường phù hợp cho từng phương án và giai đoạn sản xuất cụ thể.
- Tình trạng khai thác – chế biến quặng vàng không được quản lý chặt chẽ, sử dụng công nghệ chắp vá, lạc hậu và không phù hợp với loại hình quặng đã và đang gây tổn thất tài nguyên, suy thoái môi trường và mất trật tự an ninh xã hội ở nhiều khu vực trong cả nước.
- Cần nhanh chóng nghiên cứu triển khai và xây dựng các mô hình trình diễn công nghệ hòa tách xianua để thu hồi vàng phù hợp cho một số loại hình quặng vàng phổ biến của Việt Nam, ưu tiên để xử lý loại hình quặng vàng – thạch anh – sunfua./.

Tài liệu tham khảo
1. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội năm 2005.
2. “Nghiên cứu công nghệ chế biến quặng vàng mỏ Minh Lương, Lào Cai”. Báo cáo đề tài Trung tâm KHCN Chế biến và Sử dụng Khoáng sản, Hội Tuyển khoáng Việt Nam, Hà Nội 2008.
3. “Nghiên cứu công nghệ chế biến quặng tinh vàng mỏ atapư CHĐCN Lào”. Báo cáo đề tài Trung tâm KHCN Chế biến và Sử dụng Khoáng sản, Hội Tuyển khoáng Việt Nam, Hà Nội 2008.
4. J.O. Marsden, “The Chemistry of gold Extraction”, 2006.